Tìm kiếm tin tức
DANH MỤC
.
 
           
            
           
         
         
    
 

Chung nhan Tin Nhiem Mang

Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Tỉnh Đình làng Thanh Thủy Chánh, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế
Ngày cập nhật 03/04/2024

Ngày 21/3/2011, UBND tỉnh đã có Quyết định số 653/QĐ-UBND công nhận Đình Thanh Thủy Chánh (xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy) là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.

LÝ LỊCH DI TÍCH

I. TÊN DI TÍCH:

Di tích kiến trúc nghệ thuật: Đình Thanh Thủy Chánh.

II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ, ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH:

II. 1. Địa điểm phân bố:

           Xã Thủy Thanh, Thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. 

        Toạ độ :  Kinh độ : 107038289’’.

                                 Vĩ độ     : 16027559’’.

          II. 2. Đường đi đến di tích:

Có thể đi đến di tích bằng hai đường: đường bộ và đường thủy. Nhưng đường bộ là thuận tiện nhất.

Đường bộ: Từ cầu Tràng Tiền đi đến đường Trường Chinh, theo đường Trường Chinh qua cống Phát Lát (500m) đến ngã ba, rẽ phải theo đường tỉnh lộ I đi thêm 5km là đến đình Thanh Thủy Chánh, di tích nằm ngay đầu làng.

Đường thủy: Từ Đập Đá dùng thuyền xuôi theo dòng sông Như Ý đến thôn  Thanh Thủy Chánh theo con hói làng, tiếp tục xuôi theo con hói thêm khoảng 2km đến Cầu Chùa là đến di tích. 

III. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ THUỘC TÍNH CỦA DI TÍCH:

III.1. Quá trình hình thành làng Thanh Thủy Chánh:

Làng Thanh Thủy Chánh cách thành phố Huế khoảng 5 km về hướng Đông Nam, là một trong những làng được hình thành tương đối sớm ở vùng đất Thuận Hóa. Từ khi thành lập đến nay, làng có nhiều tên gọi khác nhau: Theo sách“Ô châu cận lục” của Dương Văn An (viết vào năm 1553), dưới thời nhà Mạc làng có tên là Ôn Tuyền(1), đây là một trong 67 làng cổ của huyện Tư Vinh (Phú Vang), phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa, với lời bình: “Ôn Tuyền ngọc đẹp, tựa như phong thái quý phi(2). Về sau không rõ thời điểm cụ thể, lý do nào làng được gọi là Thanh Tuyền. Trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (viết vào năm 1776) đã nhắc đến địa danh Thanh Tuyền thuộc Tổng Sư Lỗ (Tổng Sư Lỗ lúc này gồm có 15 xã và 8 phường: các xã Sư Lỗ thượng, Sư Lỗ hạ, Thanh Tuyền Thượng, Thanh Tuyền Hạ, Đồng Di, Văn Giang, Lương Khê, Lương Phúc, Thần Phù, Lương Văn, Phù Bài, La Chức, Tô Đà, An Nông, Thủy Bạn; Các phường Phúc An, Phú Xuân, Liên Cừ, An Thạch, La Sơn, Hoàng An, Tân Tô, Xuân Xướng). Lúc này làng Thanh Tuyền đã được tách ra làm hai là Thanh Tuyền Hạ và Thanh Tuyền Thượng, đều thuộc tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang(3). Thanh Tuyền Hạ (nay thuộc xã Thủy Thanh) là chánh gốc làng Thanh Tuyền, còn Thanh Tuyền Thượng (nay thuộc phường Thủy Dương) được mở rộng, xây dựng ở khu đất cao, có đồi núi nên gọi là Thượng.

Mô tả về địa giới làng Thanh Tuyền, Địa bạ triều Nguyễn biên soạn vào thời Gia Long cho biết: “Làng (xã) Thanh Tuyền: Đông giáp xã Lang Xá, xã Dã Lê thượng (thuộc tổng Dã Lê); xã An Cựu (tổng Vi Dã). Tây giáp xã Vân Thê (tổng Đường Hoa); xã Dương Phẩm, xã Nguyệt Biều (tổng Kim Long). Nam giáp xã Vân Thê (tổng Đường Hoa), xã Vi Dã Thượng (tổng Kim Long). Bắc giáp xã Dương Phẩm (tổng Kim Long, huyện Hương Trà)”(4).

Vào năm Minh Mạng 16 (1835), sau khi chia cắt lại địa giới hành chính và đặt thêm 3 huyện mới là Phong Điền, Hương Thủy, Phú Lộc, lúc này Hương Thủy được thành lập từ phần đất của hai huyện Phú Vang và Hương Trà. Làng Thanh Tuyền nằm trong một phần đất của huyện Hương Thủy(5).

Theo Đồng Khánh Địa Dư Chí, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, làng Thanh Tuyền có 2 giáp; Giáp chính và Giáp thượng đều thuộc xã Thanh Thủy, thuộc Tổng Dạ Lê(6). Hiện nay, làng Thanh Thủy Chánh thuộc xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy,  tỉnh Thừa Thiên Huế.    

Về nguồn gốc cư dân: Năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông hoàn thành việc dẹp loạn ở vùng Thuận Hóa và ban chiếu tăng cường di dân vào phía Nam, lúc này các làng xã ở Thuận Hóa lần lượt được thành lập… Căn cứ các tài liệu, gia phả  tại làng Thanh Thủy Chánh và tư liệu, văn bia đang lưu giữ tại Nhà thờ họ Lê Diên có ghi lại: “Vào khai khẩn vùng đất này, ngài khai canh húy là Lê Hữu Lễ, ngài xuất thân là một vị quan văn dưới triều đại nhà Lê giữ chức: Bắc Giang phủ đồng tri phủ, Lễ Nghi Hầu, thụy Minh Đạo tiên sinh; tước phong: “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần.” Sau khi ngài vào đất Thuận Hóa, thấy cảnh sắc nơi đây hữu tình có thể làm nơi an cư lạc nghiệp, ngài khai phá đất hoang, chiêu mộ lưu dân lập ấp, khai sinh ra làng Thanh Tuyền”(7).

Hiện nay làng có 13 họ được thờ trong đình. Họ khai canh là: Lê Diên, khai khẩn là: Nguyễn Quang và sau đó là thứ tự các họ đến sau: Phùng, Phan, Lê Đình, Lê Trọng, Đặng, Ngô, Trần, Lê Văn, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Viết, Phạm...

Làng Thanh Thủy Chánh nằm bên dòng sông Như Ý, con sông chảy qua các làng thuộc xã Thủy Thanh như Vân Thê, Lang Xá… Dòng sông Như Ý hiền hòa cung cấp phù sa cho những cánh đồng lúa, là nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt, đồng thời là đường giao thông quan trọng một thời của những vùng cư dân hai bờ sông.

Nằm trên một vùng đất trũng, người dân Thanh Thủy Chánh từ bao đời nay sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Cũng như một số làng khác ở vùng đất này, ngoài nghề trồng lúa dân làng còn có một số nghề thủ công như chằm nón, đan lát, trồng hoa, chăm sóc cây cảnh… để cải thiện đời sống trong những lúc nông nhàn, trái vụ.

III.2. Quá trình hình thành đình Thanh Thủy Chánh:

 Cũng như bao làng quê khác, cùng với quá trình hình thành làng thì hệ thống các công trình kiến trúc, tôn giáo như đình, chùa, miếu... cũng lần lượt ra đời nhằm đáp ứng về nhu cầu đời sống tâm linh và sinh hoạt cộng đồng của dân làng. Đình làng trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa của dân làng, là điểm nối quá khứ và hiện tại, nơi gửi gắm những mong ước“mưa thuận gió hòa”, “Quốc thái dân an”... cuộc sống ấm no hạnh phúc của mỗi người dân. Đình làng Thanh Thủy Chánh ra đời cũng không nằm ngoài mục đích đó.

Đình ra đời sau khi làng được thành lập, trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử nên đình được xây dựng và trùng tu sửa chữa nhiều lần, nhưng vẫn giữ được dấu ấn của kiến trúc xưa. Đình là nơi thờ vọng các vị có công khai canh, khai khẩn và những người có công với làng với nước, cũng là nơi tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hóa, lễ hội cộng đồng của dân làng Thanh Thủy Chánh.

          Làng Thanh Thủy Chánh và xã Thủy Thanh là một trong những vùng đất có bề dày về truyền thống yêu nước và chống giặc ngoại xâm. Chính trên mảnh đất hiền hòa, tươi đẹp với những con người cần cù, bình dị nhưng anh dũng, bất khuất này, các phong trào yêu nước đấu tranh và cách mạng đã hình thành và phát triển, góp phần cùng nhân dân huyện Hương Thủy và Thừa Thiên - Huế viết nên những trang sử hào hùng. Đình làng Thanh Thủy Chánh chính là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử cách mạng trọng đại của dân làng Thanh Thủy Chánh.

Trong những ngày đầu cách mạng tháng Tám năm 1945, đình làng trở thành địa điểm thành lập và ra mắt chi bộ Đảng xã, các tổ chức quần chúng cách mạng như Nông hội đỏ, Thanh niên Cộng sản Đoàn, Phụ nữ phản đế…, sau là trụ sở của Ủy ban Cách mạng Lâm thời và nơi tập trung huấn luyện dân quân du kích chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Tại đây, vào ngày 20/8/1945 đã diễn ra buổi mittin thành lập chính quyền mới của dân làng, góp phần cùng nhân dân cả nước lật đổ chính quyền thực dân phong kiến.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đình làng trở thành nơi tập luyện, cất giấu vũ khí chuẩn bị cho phong trào Đồng Khởi 1964. Ngày 31/10/1964 cùng với nhân dân trong xã, sau khi tổ chức míttin tại đình làng, nhân dân trong làng đã tỏa ra các hướng nổi dậy phá kìm giành quyền làm chủ, giải phóng toàn xã.

Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân (1968), tại khu vực đình làng, lực lượng du kích địa phương đã phối hợp với bộ đội chủ lực huyện Hương Thủy đánh bại cuộc càn quét của tiểu đoàn biệt động 39 của địch. Mùa xuân năm 1975, đình làng trở thành địa điểm đóng quân của một bộ phận Ban chỉ đạo chiến dịch của huyện Hương Thủy chỉ huy bộ đội đánh địch giải phóng Huế.

Cùng với mảnh đất và con người nơi đây, Đình làng Thanh Thủy Chánh đã góp phần tô điểm thêm truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất của nhân dân làng Thanh Thủy Chánh trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đang chứng kiến những thay đổi ngày càng tốt đẹp hơn trong đời sống kinh tế, văn hóa,  xã hội của địa phương, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trải qua thời gian đình làng Thanh Thủy Chánh được trùng tu vào các năm 1972, 2005... Trong quá trình trùng tu sửa chữa một số bộ phận mái, cột kèo... và  xây kè đá quanh hồ bán nguyệt.

IV. LOẠI HÌNH DI TÍCH: 

Di tích kiến trúc nghệ thuật.

V.  KHẢO TẢ DI TÍCH:

 Đình Thanh Thủy Chánh nằm trong thửa đất có ký hiệu CDK ; Gồm có các công trình: Hồ Bán nguyệt; Trụ biểu, la thành; Bình phong; Sân đình và Đình.

* Hồ bán nguyệt: Nằm ở phía trước đình được xây kè xung quanh bằng bê tông, hình chữ nhật, có diện tích 370m2. Ngoài chức năng làm tôn thêm vẻ đẹp và trang nghiêm của đình, hồ bán nguyệt còn chứa đựng một yếu tố quan trọng của thuật phong thủy trong cách xây dựng các công trình kiến trúc dân gian ở Huế, đặc biệt trong hồ có mạch nước ngầm, luôn giữ nước cho dân làng trong mùa khô hạn. Hồ có các bậc tam cấp lên xuống, hai bên bậc tam cấp có gắn hai con rồng bằng bê tông với mong muốn như trấn giữ long mạch cho làng. Ngăn cách giữa hồ bán nguyệt và hệ thống trụ biểu, tường rào là con đường làng chạy ngang trước mặt đình. 

* Trụ biểu, la thành:

Hệ thống trụ biểu cũng chính là lối ra vào đình, trụ biểu có hình khối vuông gồm có 4 trụ, hai trụ chính giữa cao 5,4m, hai trụ hai bên cao 5,1m, được xây dựng bằng chất liệu ximăng cốt thép, kết cấu theo kiểu cổ lầu, phía trên gắn hình búp sen, mặt trước và mặt sau đều được ghép câu đối chữ Hán bằng chất liệu sành sứ, hai mặt hai bên được đắp nổi hình con rồng uốn lượn bằng xi măng, các mặt còn lại của các trụ đều được trang trí hoa lá, cây cối ghép sành sứ nhiều màu sắc. Hai trụ ngoài cùng được nối liền với hệ thống tường thành, có gắn hai con nghê hai bên để trấn giữ cho đình.

Nội dung các câu đối ở trụ biểu ca ngợi công đức của tổ tiên và tấm lòng hiếu nghĩa của các thế hệ con cháu đối với các bậc tiền nhân đi trước có công khai phá vùng đất.

Chữ Hán:

          福德清光祖宗開拓傳自古

義仁明正世代務塘引來新

          Phiên âm:

          Phúc đức thanh quang tổ tông khai thác truyền tự cổ

          Nghĩa nhân minh chính thế đại vụ đường dẫn lai tân.

Tạm dịch:

          Phúc đức sáng trong tổ tiên mở cõi truyền từ xưa

          Nghĩa nhân chính trực đời đời chuyên dẫn dắt tới điều mới.  

* Bình phong: Từ hệ thống trụ biểu đi vào khoảng 1,5m là đến bình phong. Bình phong cao 2,5m; rộng 6,3m, có tác dụng tạo nên sự kín đáo, trang nghiêm cho hệ thống các công trình bên trong đình. Bình phong xây rỗng, mặt chính trang trí hình “long ẩn vân”, hai bên tả, hữu đắp vẽ hình ảnh “rùa đội hạc”, phía trên là các hình “Rồng” cách điệu. Tiếp đến là đoạn thành lửng, trên thành gắn hai con nghê hai bên, ngoài cùng là hai trụ đăng trang trí theo kiểu cổ lầu, ở trên có gắn bầu rượu. Mặt trước và mặt sau của bình phong đều có ghép các câu đối chữ Hán bằng sành sứ, nội dung nói lên sự mong mỏi của các bậc tiền nhân đối với con dân trong làng phải biết đoàn kết, lưu giữ truyền thống tốt đẹp của cha ông.  

Chữ Hán:

并留骨擇江山舊

風扇喧禾草木榮

Phiên âm:

          Tịnh lưu cốt trạch giang sơn cựu

          Phong phiến huyên hòa thảo mộc vinh.

          Tạm dịch:

          Cùng lưu giữ cốt xương, giữ non sông như cũ

          Một cơn gió mát lành hòa cây cối xanh tươi.    

* Sân đình:           Nối liền với bình phong và đình là khoảng sân có diện tích  84,9m2, đúc bằng  bêtông, hai bên tả hữu có các bồn hoa, cây cảnh... Từ sân đi qua 3 bậc tam cấp là đến đình.  

* Đình: Đình quay về hướng Tây Nam, trước mặt là cánh đồng lúa rộng lớn tạo nên một không gian thoáng đãng, xa hơn là núi Ngự Bình được xem là tiền án, chính giữa là một con hói làng được chọn làm yếu tố “minh đường thủy tụ”. Đình gồm có Tiền đường và Chánh điện.

- Tiền đường: Xây bằng bêtông giả gỗ, mái lợp ngói liệt, chính giữa nóc trang trí hình ảnh Hổ phù đội mặt trời, trên các bờ nóc, bờ quyết, nóc phụ...trang trí long hồi, long hóa lá, quy, phụng... Chất liệu chủ yếu ghép sành sứ, có màu sắc đẹp hài hòa.

Hai bên tả, hữu ở cuối bậc tam cấp có gắn hình con nghê đứng chầu. Từ sân đình, đi qua các bậc tam cấp để vào tiền đường có các cột trụ tròn bằng chất liệu bêtông trang trí rồng cuộn ghép sành sứ. Nội thất của tiền đường để trống, dùng làm nơi hội họp, sinh hoạt văn hóa… Không gian của tiền đường được chia ra làm ba phần bằng nhau tạo thành ba lối đi vào bên trong chánh điện, trên ngạch cửa của lối vào có treo các bức đại tự bằng chữ Hán, theo kiểu cuốn thư bằng chất liệu ximăng, ghép sành sứ, bột màu.

          + Bức đại tự ở giữa: Chữ Hán:   江山

       Phiên âm: Giang sơn

      Tạm dịch:  Sông núi

          + Bức đại tự bên trái: Chữ Hán: 敘倫

                             Phiên âm: Tự luân

                             Tạm dịch: Đạo lý tụ họp

          + Bức đại tự bên phải: Chữ Hán: 敦典

                             Phiên âm: Đôn điển

                             Tạm dịch: Gìn giữ phép tắc.

Các cột áp sát tường trước cửa chánh điện có các câu đối bằng chữ Hán.

          Chữ Hán:

特地起大亭覃爽精神常際陟

中天見勝景靈鍊水土仲清平

          Phiên âm:

          Đắc địa khởi đại đình đàm sảng tinh thần thường tế trắc

          Trung thiên kiến thắng cảnh linh luyện thủy thổ trọng thanh bình.

          Tạm dịch:

          Đất tốt khởi dựng đình lớn, tinh thần sảng khoái lúc đăng cao

          Giữa trời thấy thắng cảnh đẹp, linh thiêng đất nước giữa thanh bình.

Tiền đường và chánh điện thông nhau bằng ba lối đi, có hệ thống cửa gỗ bông sắt lắp kính.

- Chánh điện: Kiến trúc của chánh điện được làm theo kiểu nhà rường truyền thống của xứ Huế, gồm 3 gian 2 chái, mái lợp ngói liệt, chính giữa nóc trang trí hình ảnh mặt trời, trên các bờ nóc, bờ quyết, nóc phụ...trang trí hình tượng long hồi, long hóa lá, quy, phụng....hoa lá cách điệu, hai đầu hồi có đắp nổi hình “Dơi ngậm kim tiền” ghép bằng sành sứ.  

          Kết cấu chính của đình Thanh Thủy Chánh là bộ khung gỗ của một nhà rường truyền thống “thượng trến hạ xuyên, giao nguyên trụ đội”, làm bằng gỗ với hệ thống cột, kèo, xuyên, trến…được liên kết với nhau bằng các mộng mẹo rất chắc chắn, những chiếc kèo liên kết theo kiểu kèo này chồng lên kèo kia, đuôi kèo dưới chồng lên đầu kèo trên và nối với nhau ở đầu các cột hàng nhất, cột hàng nhì và cột hàng ba. Các cột này trong cùng một vài được nối với nhau từng đôi một ở đầu cột bằng những chiếc kèo, hai chiếc kèo trên cùng giao nhau ở đỉnh nóc nhờ một con xỏ gọi là “giao nguyên”, xà ngang gọi là “trến” được nối với nhau ở lưng chừng cột, rồi xuyên qua cột cái nhô ra ngoài một đoạn ngắn chạm con cù để chèn con chêm (nêm) tạo nên sự chắc chắn cho toàn bộ hệ thống ngôi đình. Phía trên “trến” ở chính giữa có đắp áp sát một đoạn gỗ được vát cong, xoi chỉ nổi ở hai bên, được gọi là “con tôm”, dựng đứng trên lưng “con tôm” là “trụ tiêu”, ở đầu trên của trụ tiêu có đặt một thanh gỗ gọi là “áp quả” hay còn gọi là “cánh ác”, có tác dụng để đỡ lấy 2 chiếc kèo trên cùng. Hệ thống các vài, kèo được nối với nhau tạo nên một mối liên kết ngang gồm thượng lương, xà thượng và hoành tử. Hệ thống đầu của các vì kèo đều được chạm trổ bằng các đầu rồng cách điệu, đuôi kèo được thể  hiện bởi chi tiết 3 chóp nón chồng lên nhau hay còn gọi là kiểu thức “Tam sơn” có chạy đường kỷ hà và hoa văn sóng nước… Dưới chân cột là những viên đá táng hình hoa sen làm để ngăn cách giữa phần đất và phần cột có tác dụng chống ẩm và mối mọt. Tường được xây bằng gạch, vừa để che chắn, vừa làm chức năng chịu lực.

           Hệ thống hương án thờ tự được bài trí ở cả ba gian từ ngoài vào trong đến sát tường. Từ ngoài đi vào gian giữa đặt một án thờ lớn bằng gỗ sơn son thiếp vàng, hương án được trang trí hình ô hộc, mỗi ô hộc đều được chạm khắc, trang trí các đề tài tứ linh, cây cối, hoa lá… ở chính giữa là mặt “hổ phù”. Bên trên bài trí các đồ thờ tự như: bài vị, lư xông trầm, lư hương, bình hoa, khay đựng trầu cau, đĩa đựng hoa quả, đế đèn… đây là án thờ Thành hoàng. Ở hai cột trước hương án có treo hai câu đối chữ Hán bằng gỗ:

Chữ Hán:

地脈發豊登四邑人民完富封

神靈胠保護一中水土賴安康

                                          (甲寅仲秋吉日)

Phiên âm:

Địa mạch phát phong đăng tứ ấp nhân dân hoàn phú phong

Thần linh khư bảo hộ nhất trung thủy thổ lại an khang.

                                                                       (Giáp Dần trọng thu cát nhật).

          Tạm dịch:

          Mạch đất phát ra dồi dào nên dân tứ ấp đều phong phú sung túc

          Thần linh che chở giúp đỡ nên thủy thổ một lòng đều an khang.

                                                                            (Ngày tốt tháng 8 năm Giáp Dần).

Hai gian tả hữu bài trí 2 hương án bằng gỗ có trang trí các hình ô học khá đơn giản không chạm khắc và trên các hương án đều bài trí đồ thờ tự như: bình hoa, bát nhang, đế đèn … thờ 13 dòng họ, cùng các câu đối chữ Hán treo trước.

Chữ Hán:

正心修以興邦進步文謨武烈

達道開於濟世登值地義天經

                                            (甲寅仲秋吉日)

          Phiên âm:

          Chính tâm tu dĩ hưng bang tiến bộ văn mô võ liệt

          Đạt đạo khai ư tế thế đăng trị địa nghĩa thiên kinh.

                                                                                   (Giáp Dần trọng thu cát nhật)

Tạm dịch:

          Chính tâm tu đạo lấy việc giúp nước tiến bộ làm sách lược văn võ

          Đạt đạo mở mang lấy việc cứu đời, đăng quang nghĩa khí trời đất.

                                                                             (Ngày tốt tháng 8 năm Giáp Dần).

Chữ Hán:

清高普炤輝煌祖德尊功千秋在

水秀長流潤澤地靈人傑萬古存

                                          (歲次甲寅仲秋吉日)

Phiên âm:

Thanh cao phổ chiếu huy hoàng tổ đức tôn công thiên thu tại

Thủy tú trường lưu nhuận trạch địa linh nhân kiệt vạn cổ tồn.

                                                            (Tuế thứ Giáp Dần trọng thu cát nhật)

          Tạm dịch:

          Thanh cao chiếu sáng huy hoàng khắp, công đức tiên tổ mãi mãi còn

          Nước trong chảy mãi khắp vùng, địa linh nhân kiệt vạn đời còn đây.

                                                                              (Ngày tốt tháng 8 năm Giáp Dần)

Ngoài các công trình chính đã nêu trên, hiện nay tại đình còn lại một phần  nền móng của nhà tăng trước đây (nhà tăng đã bị sập trong thời gian chiến tranh, đến nay vẫn chưa được dựng lại).

IV. HIỆN VẬT CÓ TRONG DI TÍCH:

Hiện nay ở trong đình còn có một số hiện vật sau:

  • 03 án thờ bằng gỗ lớn phía trước.
  • 04 bức hoành phi bằng gỗ.
  • 06 cặp câu đối chữ Hán bằng gỗ.
  • 02 bộ lỗ bộ bằng gỗ.
  • 01 trống.
  • Các đồ thờ tự trên các hương án: bình hoa, bát nhang, đài trầu nước, quả bồng…

VII.  CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ, LỄ HỘI DIỄN RA TẠI DI TÍCH:

Với truyền thống “Ly hương bất ly tổ”, ban nghi lễ của làng được thành lập, có nhiệm vụ tổ chức hội họp, duy trì các hoạt động lễ tế theo đúng thuần phong mỹ tục của địa phương. Hàng năm vào dịp thượng tuần tháng 7 âm lịch, Lễ Xuân tế, Thu tế, tết Nguyên Đán…đó là những ngày lễ lớn của làng, bà con đi làm ăn xa có dịp trở về tề tựu để tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, các bậc tiền nhân, những người có công... cùng quây quần bên nhau ôn lại những thuyền thống tốt đẹp của dân làng, cùng chung tay gìn giữ bảo tồn thuần phong mỹ tục, xây dựng làng ngày một khang trang hơn.

VIII. ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ DI TÍCH:

Thanh Thủy Chánh là một trong những làng xuất hiện tương đối sớm ở vùng đất Thuận Hóa. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, nhưng làng vẫn còn lưu giữ được nhiều nét đặc trưng văn hóa của người Việt trên vùng đất mới. Hệ thống đình, chùa, miếu mạo, nhà thờ họ... gắn liền với các nghi thức tế lễ, hò vè, trò chơi dân gian… Ở làng Thanh Thủy Chánh còn có một công trình kiến trúc hết sức đặc sắc được xếp hạng di tích quốc gia – đó là Cầu ngói Thanh Toàn. Đây là một công trình có giá trị văn hóa và kiến trúc nghệ thuật cao.

Trong số các công trình kiến trúc ở làng, đình có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tâm thức của người dân làng Thanh Thủy Chánh. Đó là nơi thiêng liêng để người dân tưởng nhớ đến những bậc tiền nhân đã có công dựng làng, dựng nước, để gửi gắm những mong ước của dân làng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc; là trung tâm sinh hoạt của một cộng đồng dân cư trên một vùng đất; là nơi bảo tồn, gắn kết hiện tại với quá khứ và gắn bó mỗi cá nhân thành cộng đồng xã hội. Những lễ hội được tổ chức hàng năm ở đình cùng với những hoạt động sinh hoạt tập thể khác mang đậm nét truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, của người dân địa phương.

 Mặc dù có quy mô không lớn, nhưng Đình Thanh Thủy Chánh có giá trị về mặt kiến trúc mang phong cách nhà rường truyền thống của xứ Huế. Với hệ thống cột, kèo, xuyên, trến, cùng với các họa tiết chạm khắc trên gỗ, các môtip, đề tài trang trí ở phần mái, bờ nóc, bờ quyết; các đầu cù, vì kèo, xuyên... đã phần nào phản ánh tâm tư, tình cảm và ước vọng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước với mong muốn, cầu mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no, xã hội an bình, thịnh vượng.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình Thanh Thủy Chánh còn là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử cách mạng trọng đại của dân làng: Là địa điểm tổ chức mittinh giành chính quyền năm 1945 và trụ sở Ủy ban Cách mạng; là địa điểm thành lập và ra mắt chi bộ Đảng, các tổ chức đoàn thể cách mạng của địa phương; là nơi tập trung huấn luyện dân quân du kích... Vì vậy, đình làng Thanh Thủy không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa vật chất, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của làng, mà còn là nơi để giáo dục về lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường và ghi nhớ những hy sinh mất mát của cha ông để bảo vệ quê hương. Để từ đó thế hệ trẻ hôm nay ý thức được trách nhiệm của mình trong việc lưu giữ và ngày càng phát huy tốt hơn những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống của cha ông, đoàn kết, chung sức, chung lòng xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.     

IX. TÌNH TRẠNG BẢO QUẢN DI TÍCH:

Trải qua một thời gian tồn tại khá dài cùng với sự khắc nghiệt của thiên tai, lũ lụt, chiến tranh nhưng dưới sự bảo vệ, chăm sóc của dân làng và chính quyền địa phương nên nhìn chung đình vẫn giữ được những nét kiến trúc ban đầu.

Tuy nhiên, hiện nay một số cấu kiện của gỗ bị mối mọt, ngói vỡ nên mưa xuống có một số cột bị thấm nước gây nên ẩm mốc.

X. CÁC PHƯƠNG ÁN BẢO VỆ VÀ SỬ DỤNG DI TÍCH:

Đình Thanh Thủy Chánh hiện nay được Ban đại diện và con dân trong làng Thanh Thủy Chánh phối hợp với chính quyền địa phương chăm sóc, quản lý. Dự kiến, sau khi di tích được công nhận, chính quyền địa phương và dân làng cùng phối hợp với các cơ quan chuyên môn để có kế hoạch phát huy giá trị di tích trong công tác giáo dục truyền thống, phục vụ khách tham trong các dịp lễ hội, đặc biệt là các kỳ Festival Huế gắn với hình ảnh “Chợ quê ngày hội”, cầu ngói Thanh Toàn, nhà trưng bày nông cụ... Tiếp tục kêu gọi sự hảo tâm đóng góp của con dân trong làng để tu bổ, chỉnh trang lại một số công trình như: tu sửa lại một số hạng mục trong đình đang bị xuống cấp, xây lại nhà tăng và tường rào, cây cảnh để làm tăng thêm vẽ đẹp và trang nghiêm cho đình.

Xây dựng và khai thác các tour du lịch sinh thái cho du khách bằng phương tiện thuyền nhỏ xuôi theo dòng sông Như Ý với những điểm dừng như đình Vân Thê, Phủ thờ Tôn Thất Thuyết, cầu ngói Thanh Toàn, đình Thanh Thủy Chánh và một số địa điểm sản xuất nghề thủ công trong vùng…

XI. CƠ SỞ PHÁP LÝ BẢO VỆ DI TÍCH:

          - Đình Thanh Thủy Chánh đã được UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đưa vào danh mục các di tích cần bảo vệ theo quyết định số 1046/QĐ-UBND ngày 08/10/1993.

          - Căn cứ Tờ trình số 11/TTr-UBND, ngày 14/5/2010 của UBND thị xã Hương Thủy đề nghị các cấp, cơ quan chức năng xem xét lập hồ sơ di tích đình Thanh Thủy Chánh.

          - Căn cứ tờ trình số 51/TTr-UBND, ngày 06/05/2010 của UBND xã Thủy Thanh đề nghị xem xét lập hồ sơ di tích đình Thanh Thủy Chánh.  

 XII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Dương Văn An, Ô châu cận lục, Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc, hiệu đính – dịch chú, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2001.
  2. Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên Huế, Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập I, (1930-1954), Nxb Chính trị Quốc gia- Hà Nội,1995.
  3. Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Thừa Thiên Huế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
  4. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.
  5. Lịch sử Đấu tranh Cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân huyện Hương Thủy (Sơ thảo), Nxb Thuận Hóa Huế, 1994
  6.  Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997.
  7. Thành ủy Huế, Sơ thảo lịch sử Đảng bộ thành phố Huế (1930-1954), tập1. Nxb Thuận Hoá - Huế, 1995.
  8.  Nguyễn Hữu Thông (chủ biên), Dương Phước Luyến, Lê Văn Sách, Mai Khắc Ứng, Trần Đại Vinh, Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế, Nxb Hội Nhà văn, 1992. 
  9.  Chu Quang Trứ, Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, Nxb Mỹ Thuật, 2003.
  10. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, Đồng Khánh địa dư chí, Viện nghiên cứu Hán Nôm.
  11. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Địa chí Thừa Thiên Huế. Phần lịch sử. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội. Năm 2005.
  12. UBND huyện Hương Thủy, Địa chí Hương Thủy, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
  13.  Nguyễn Vạn, Đời Người Cách Mạng (Hồi Ký), Nxb Thuận Hóa, Huế, 2000.
  14.  Trần Đại Vinh, Tên làng xã ở Thừa Thiên Huế qua các thời kỳ lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu & Phát triển, số 1 (39), 2003.
  15.  Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1995.

 Tư liệu điền dã qua các đợt khảo sát tại làng Thanh Thanh Chánh.  


(1) + (2)  Dương Văn An, Ô Châu Cận Lục. Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc hiệu đính. NXB Thuận Hóa, Huế 2001, Tr 63, 87.

(3) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977. Tr 80.

(4) Nguyễn Đình Đầu,  Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Thừa Thiên, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1997. Tr 260.

(5)  Địa chí Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa Huế, 1998. Tr 350.

(6) Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, Đồng Khánh địa dư chí, Viện nghiên cứu Hán Nôm, Tr  1422.

(7) Nội dung khắc trên bia dựng ở nhà thờ họ Lê Diên ở làng Thanh Thủy Chánh.

 

Quang Được
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Lịch công tác UBND xã
Thứ hai ngày 06/05/2024
Chủ tịch UBND: Dương Anh Tuấn
14:00: Xử lý hiện trường công trình xây dựng
Phó Chủ tịch UBND: Nguyễn Đắc Mùi
14:00: Xử lý hiện trường công trình xây dựng
Thứ ba ngày 07/05/2024
Chủ tịch UBND: Dương Anh Tuấn
08:00: Dự họp giao ban công tác quản lý nhà nước về đất đai
14:00: Dự bàn giao mặt bằng triển khai thi công công trình đường từ HTX Vân Thê đến vườn Lạc Dương nối dài đến khu dân cư xã Thủy Thanh
Phó Chủ tịch UBND: Nguyễn Đắc Mùi
08:30: Họp giải quyết đơn kiến nghị của ông Ngô Tá Nguyên (thôn Lang Xá Cồn)
14:30: Dự phiên làm việc tại nhà ông Ngô Tá Nguyên- thôn Lang Xá Cồn
Phó Chủ tịch UBND: Đặng Văn Hiệp
14:00: Nghiệm thu cơ sở dự án KHCN cấp tỉnh "Chợ quê cầu Ngói Thanh Toàn"
Thứ tư ngày 08/05/2024
Chủ tịch UBND: Dương Anh Tuấn
08:30: Kiểm tra, đánh giá khối lượng bèo trên sông Như Ý năm 2024
Phó Chủ tịch UBND: Nguyễn Đắc Mùi
08:30: Họp giải quyết một số nội dụng liên quan đến công tác quản lý và sử dụng đất nông nghiệp đấu giá thuê đất quỹ đất công ích xã
09:00: Họp giải quyết, xác nhận khối lượng bóc, đổ tầng đất mặt Dự án Trạm biến áp 110kV Huế và đấu nối
Phó Chủ tịch UBND: Đặng Văn Hiệp
08:00: làm việc với Đoàn kiểm tra của Sở GD&ĐT về kết ủa PCGD-XMC trên địa bàn thị xã
Thứ năm ngày 09/05/2024
Phó Chủ tịch UBND: Nguyễn Đắc Mùi
08:30: Dự tập huấn kỹ thuật nuôi cua đồng thương phẩm trong ao, hồ tại xã
Phó Chủ tịch UBND: Đặng Văn Hiệp
08:00: Dự tập huấn nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ về vai trò, vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng thuộc ngành LĐ-TB&XH quản lý
14:00: Họp triển khai Kế hoạch tổ chức "Ngày hội việc làm - Tuyển sinh học nghề gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững" năm 2024
Thứ sáu ngày 10/05/2024
Chủ tịch UBND: Dương Anh Tuấn
08:00 -17:30Tiếp công dân định kỳ UBND xã
09:00: Nghiệm thu công trình Trồng cây xanh đường Tỉnh lộ 1 đoạn từ Cầu Chùa đến nga ba Bàu Súng
10:00: Nghiệm thu công trình Sửa chữa, nâng cấp các hạng mục tại Nhà VHCĐ thôn Vân Thê Đập
14:00: Dự Hội nghị Sơ kết công tác Cải cách hành chsinh quý I năm 2024
14:00: Họp Ban Chấp hành Đảng bộ xã
Phó Chủ tịch UBND: Nguyễn Đắc Mùi
09:00: Nghiệm thu giai đoạn công trình Trồng cây xanh đường Tỉnh lộ 1 đoạn từ Cầu Chùa đến nga ba Bàu Súng
10:00: Nghiệm thu công trình Sửa chữa, nâng cấp các hạng mục tại Nhà VHCĐ thôn Vân Thê Đập
14:00: Họp Ban Chấp hành Đảng bộ xã
Phó Chủ tịch UBND: Đặng Văn Hiệp
08:00: Dự tập huấn công tác Thi đua - Khen thưởng năm 2024
14:00: Họp Ban Chấp hành Đảng bộ xã
14:30: Đến thăm và làm việc tại Trạm y tế
15:00: Họp triển khai Tiểu dự án Cải thiện dinh dưỡng - Giảm nghèo bền vững năm 2024
Thứ bảy ngày 11/05/2024
Chủ tịch UBND: Dương Anh Tuấn
07:00: Ra quân thực hiện phong trào Ngày Chủ nhật xanh
Phó Chủ tịch UBND: Nguyễn Đắc Mùi
07:00: Ra quân thực hiện phong trào Ngày Chủ nhật xanh
Phó Chủ tịch UBND: Đặng Văn Hiệp
07:00: Ra quân thực hiện phong trào Ngày Chủ nhật xanh
Chủ nhật ngày 12/05/2024
Truyền hình TRT
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 1.405.201
Đang truy cập 461